Cây ngái hay sung dại mọc hoang rất nhiều ngoài tự nhiên. Trong dân gian từ lâu đã quen dùng dược liệu này để trị mụn nhọt, sốt rét, trĩ nội trĩ ngoại hay kiết lị, sỏi thận. Nhiều người còn cho rằng nó còn có tác dụng tốt đối với việc loại bỏ phong thấp, giảm đau ở xương… Thế nhưng, cũng không ít ý kiến cho rằng quả ngái gây ngộ độc. Vậy thực hư công hiệu và độc tố của chúng thế nào, bài viết sau sẽ nêu chi tiết.
Cây ngái là cây gì?
Ngái là một loại sung dại được mô tả lần đầu tiên trong tài liệu hiện đại vào năm 1972. Theo đó, nó có danh pháp khoa học là Ficus Hispida L.f, họ Dâu tằm (Moraceae).
Trong dân gian, người Việt gọi là sung ngái, ngái sung, sung rừng hay sung dại. Còn trong tiếng Tày nó có tên là mạy mọt, tiếng Dao thì là Chị cu điăng. Người Cadong trên dãy Trường Sơn - Tây Nguyên đặt cho chúng cái tên Loong tốt. Trong một vài tài liệu y học cổ truyền phương Bắc, sung dại được ghi chép là Dã vô hoa.
Đây là loài cây mọc dại khá dễ nhầm lẫn với một số loại sung và cây vả. Nhiều người cho rằng quả ngái không ăn được như sung, vì nó có độc. Thế nhưng nhiều nơi lại dùng những bộ phận của cây này để trị bệnh.
Mô tả dược liệu
Do có lá, quả đều rất giống với sung và vả nên bạn cần nhận biết rõ hình ảnh cây ngái ra sao để phân biệt. Chúng có đặc điểm:
Thân cây: Là loại thân gỗ nhỡ, rỗng ở trong. Chúng thường cao từ 5 - 7m và phân nhiều nhánh (đối xứng) rất chắc khỏe. Khi còn non, cành ngái khá mềm, bề ngoài có lông hơi nhám nâu bao quanh. Đến lúc về già thì nhẵn, cứng, nếu chặt hoặc bẻ ngang thân cây thường chảy mủ trắng.
Lá cây: Lá ngái mọc đối xứng trên các đốt cành. Toàn phiến lá có hình bầu dục, những lá ở gốc thường tròn và ngắn hơn lá gần ngọn. Tổng chiều dài khoảng 15 - 30cm. Ở mép lá có răng cưa và chóp nhọn. Bề mặt trên dưới xanh, chứa các lông nháp, tạo cảm giác thô ráp khi sờ. Đây là điểm khác biệt rất cơ bản giữa ngái, sung và vả.
Hoa: Cây ngái ra hoa vào khoảng từ tháng 1 đến tháng 4 hàng năm. Chúng xuất hiện ở đoạn gốc thân cây và các cành già với những chụm to. Trong đó, hoa đực nằm ở đỉnh cụm, những bông cái chứa bầu, bao bọc bằng đài hoa to và lông mềm, bên trong có vòi hoa.
Quả: Sau khi hết thời kỳ sinh trưởng của hoa, các bông cái được thay thế bằng quả, bông đực tiêu biến. Chúng có dạng hình cầu, bẹt ở núm, nhọn hơn ở cuống. So với quả sung thì màu thường xanh bóng hơn, nhọn và nhỏ, nhiều lông chứ không nhẵn. Trên quả có thể chứa những đốm trắng. Mùa quả ngái kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10. Khi chín thì chuyển màu vàng và rụng đi.
Ngoài ra, trên cây ngái thường có nhiều tầm gửi “sống nhờ”. Chúng được gọi là tầm gửi cây ngái, cũng có tác dụng chữa nhiều bệnh. Những cây này cư trú càng lâu năm thì càng hấp thu nhiều dưỡng chất của sung dại và trở nên có giá.
Phân biệt ngái, sung, vả
Trên thực tế, rất nhiều người nhầm lẫn 3 loại cây này với nhau vì chúng rất tương đồng. Tuy nhiên, xét về cả ngoại hình và dược tính, nếu quan sát và thử nghiệm kỹ bạn sẽ thấy:
Quả ngái được phủ lông ở ngoài, khi chín chuyển màu vàng. Sòn sung có bề mặt bên ngoài nhẵn nhụi, núm ở dưới to, khi chín cho màu đỏ hoặc đỏ cam. So về ngoại hình thì ngái thường nhỏ nhất, sau đó đến sung, và rồi đến quả vả. Hơn nữa, vả tuy to nhưng bẹt hơn sung và ngái, khi chín đỏ thắm, có nhiều mật ở núm và mùi hương rất thơm.
Dân gian cho rằng quả sung với quả vả, quả ngái rất giống nhau nhưng riêng ngái không ăn được. Vì vậy, rất nhiều người vẫn nhầm lẫn và thắc mắc sự thật quả ngái có ăn được không. Thực tế, ngái là một loại quả có chứa độc, nếu ăn vào có thể làm người khỏe mạnh bị say, nôn mửa hoặc tiêu chảy.
Về đặc điểm của lá, lá ngái thường dài và có màu xanh tươi, thô ráp. Còn lá sung hay chia góc cạnh không rõ ràng, bề mặt nhẵn và đậm màu hơn. Riêng lá cây vả lại to và tròn hơn hẳn, nhẵn nhụi, màu sắc 2 mặt đậm nhạt rất rõ ràng.
Đặc điểm phân bố
Loài cây này sinh tồn và chịu hạn rất tốt, do đó nó thích hợp với khí hậu nhiệt đới. Tuy nhiên, nơi mọc tự nhiên của chúng lại gần nguồn nước như sông, suối. Tại Việt nam, ngái có mặt ở cả những cánh rừng nguyên sinh, thứ sinh, đồng bằng hay miền núi.
Một số tỉnh đồng bằng, trung du và miền núi có nhiều cây này là Hải dương, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Nghệ An, Hưng Yên.
Trên thế giới, người ta phát hiện cây ngái ở nhiều vùng của Trung Quốc, Ấn Độ, Lào hay Malaysia.
Sự phân tán của chúng dựa vào dòng nước. Khi quả rụng xuống giữa mùa mưa và được cuốn trôi đi, chúng mắc lại ở đâu thì cây con mọc lên tại đó.
Ngày nay, những người nhân giống và gieo trồng ngái làm thuốc còn dùng cành già để giâm cho trồi, rễ mọc lên, tạo cây mới.
Bộ phận làm thuốc
Theo kinh nghiệm chữa bệnh của dân gian thì gần như mọi bộ phận của sung đều chữa bệnh được. Tuy nhiên cách bào chế mỗi phần là khác nhau, cụ thể như sau:
Lá ngái: Người ta có thể thu hoạch quanh năm, nhưng chỉ chọn loại lá bánh tẻ, không dùng những phần quá non hoặc già. Loại bỏ những chiếc bị sâu bệnh, héo. Sau đó rửa thật sạch và phơi hoặc sao khô để dùng.
Búp non: Loại này được dùng tươi, chỉ cần hái, ngâm rửa sạch.
Vỏ và thân cây: Thường được cắt về vào đầu xuân, khi cây chứa nhiều nhựa nhất và vỏ dễ bóc tách. Người ta cạo sạch lớp vỏ bên ngoài rồi đem ngâm với nước vo gạo 2 tiếng. Sau đó thì cắt thành những lát, khúc mỏng, ngắn để sao hoặc phơi khô.
Rễ ngái: Đối với phần này, người ta chỉ dùng vỏ của rễ. Mùa thu là thời điểm tốt nhất để đào rễ. Sau khi đào xong thì đem rửa sạch đất cát, tạp chất. Cuối cùng, đem phơi hoặc sấy khô và bảo quản để dùng dần.
Quả ngái: Dựa vào thời điểm chín là mùa Đông, người ta hái về trước khi trái sung rụng. Sau đó đem đốt chúng thành than và đem ngâm rượu hoặc cũng phơi sấy, dùng dần.
Ngoài các bộ phận của cây thì những dây tầm gửi trên cây này cũng được thu hoặc khi chúng đủ già. Tầm gửi cây sung thường được phơi khô, dùng theo cách sắc nước uống.
Cây ngái có tác dụng gì với sức khỏe?
Công dụng của sung rừng không chỉ được Y học cổ truyền, dân gian nhắc đến. Để giải đáp những câu hỏi lớn nhiều người đang nghi vấn, khoa học đã và đang phân tích, làm rõ dược tính của chúng.
Thành phần của cây ngái
Nhiều nghiên cứu y khoa đã chỉ ra, trong các bộ phận của cây ngái có chứa:
Friedlin Epifriedelanol: Chất này có vai trò giải độc, chống viêm trong nhiều trường hợp.
Glutinol: Chất này được ứng dụng trong điều chế thuốc chống độc, tăng nhãn áp, ngừa lão hóa, trị các bệnh ở tim, gan, cai nghiện rượu, điều trị viêm xương khớp và cải thiện trí nhớ.
Hợp chất béo lành mạnh: Bổ sung ngái cho cơ thể bạn cũng đồng thời cung cấp một lượng chất béo lành mạnh. Nó góp phần giảm cholesterol xấu, cải thiện tim mạch, ngừa đột quỵ và nguy cơ tiểu đường, ngăn tình trạng ứ huyết.
Axit Oleanolic: Axit Oleanolic có trong cây ngái và nhiều loại thảo dược khác được cho là có khả năng chống lại sự hình thành khối u. Bên cạnh đó nó cũng bảo vệ các tế bào ở gan và ngừa lão hóa.
Steroid: Đây là chất giúp tăng sức bền của cơ bắp và giảm mỡ thừa của cơ thể. Đồng thời nó gia tăng mật độ chất khoáng của hệ xương, hỗ trợ tổng hợp Protein.
Taraxerol: Chất này là một triterpen có tính kháng khuẩn, chống viêm và ngừa gốc tự do phát triển. Do vậy, cũng giống như các Axit Oleanolic trong ngái, nó tác động phần nào đến quá trình điều trị ung thư.
Công dụng trị bệnh của loại cây này không giới hạn ở đó. Từ những thành phần dược tính đã được tìm ra, các nhà khoa học còn đang tiếp tục nghiên cứu về tác dụng trị tiểu đường, ổn định đường huyết của ngái sung.
Theo đó, ở Ấn Độ, nhiều nhà khoa học đang đặt giả thiết rằng Ficus Hispida trong vỏ ngái có khả năng tăng glycogenesis và hỗ trợ hấp thu Glucose ngoại biên.
Methanol có trong lá cây này chính là một chất có thể làm giảm hoạt động của nhu động ruột và dạ dày. Do đó, người bệnh tiêu chảy ăn lá sung có thể trị bệnh. Tuy nhiên, các nhà khoa học cũng lưu ý rằng dược tính này chỉ có ở lá, nếu ăn quả thì ngược lại, còn gây độc.
Còn tầm gửi ngái hút nhiều dưỡng chất từ cây này cũng cho tác dụng trị bệnh kiết lỵ, đại tiện lẫn máu, sốt rét…
Tác dụng theo Đông y
Theo Y học cổ truyền, lá cây ngái hơi đắng, tính mát, giúp thanh nhiệt, trừ thấp và hóa đờm. Dân gian và các thầy lang thường dùng để:
Giải độc.
Trị mụn nhọt, đinh râu.
Chữa bệnh ở xương cốt như viêm khớp, thoát hóa cột sống…
Bồi bổ gan và thận.
Cải thiện giấc ngủ.
Hỗ trợ ăn ngon.
Tiêu phù cho những người bị tích nước.
Giúp sản phụ chữa tắc sữa sau sinh, làm mát sữa, tăng tiết sữa…
Trị bệnh trĩ.
Khắc phục tình trạng tiêu chảy, đau bụng lâu dài.
Cây ngái chữa bệnh gì? Những bài thuốc hay
Những bài thuốc nào từ cây ngái và tầm gửi của nó dùng trong điều trị bệnh? Rất nhiều mẹo dùng thuốc, công thức hay sau đây liên quan đến vị này có thể bạn chưa biết.
1. Các bài thuốc chữa trĩ
Người ta dùng lá của cây này (cũng như lá sung) để chữa trị tình trạng lòi dom do các búi trĩ nội, trĩ ngoại. Trong đó, có sự kết hợp giữa cách uống và xông hơi trị bệnh. Cụ thể có các bài:
Sắc thuốc uống: Bạn dùng 50g lá cây ngái loại bánh tẻ, đem rửa sạch rồi phơi khô. Sau đó sắc kỹ với 1 lít nước để lấy ⅓ cô đặc, chia 3 uống trong ngày. Lặp lại nhiều ngày sau đến khi búi trĩ tiêu biến.
Xông hơi: Để xông hơi bạn cũng dùng phần lá của cây ngái, nhưng kết hợp thêm lá lốt, cúc tần và một mẩu nghệ vàng. Đem tất cả đi rửa sạch, nghệ đập dập nhẹ rồi đun với 2 lít nước. Khi sôi thì hạ nhiệt và tiếp tục đun 10 phút, sau đó gạn nước để xông hậu môn.
Kiên trì thực hiện những cách chữa này không chỉ giúp búi trĩ co lại mà cảm giác đau rát cũng giảm. Người bệnh đi đại tiện ngày càng dễ dàng hơn.
Chú ý: Với cách xông hơi, bạn nên để nước không quá nóng. Bởi lẽ da ở hậu môn rất mỏng, dễ bị tổn thương. Ngoài ra, khi nước chỉ còn hơi ấm, bạn có thể dùng để rửa lại vùng chậu, tránh để nước vảy ra trước.
2. Trị bệnh ở thận
Các thầy thuốc Đông y và người dân nhiều địa phương còn dùng ngái để trị nhiều bệnh ở thận như sỏi thận, suy thận hay phù thận. Bên cạnh đó, tầm gửi ngái cũng được cho là có tác dụng tốt với tạng phủ này.
Để trị sỏi thận, người ta dùng ngái đã chín vàng. Không lấy quả ngái xanh làm thuốc vì nó chứa độc tố.
Cách làm như sau:
Trị sỏi thận
Chọn những quả ngái vàng không sâu bệnh, chín cây tự nhiên (thường vào mùa Đông) để làm sạch.
Sau đó cắt đôi và sao vàng trên chảo gang hoặc phơi cho khô quắt lại.
Mỗi ngày lấy 100g quả ngái khô này đun kỹ với 800ml nước, sao cho dược tính cô đặc ở 250ml.
Sau đó cho bệnh nhân uống ấm trong ngày đều đặn.
Nhiều ngày sử dụng, dược tính trong quả ngái sẽ giúp tán sỏi, làm tiêu sỏi tự nhiên và đào thải qua đường tiểu.
Thuốc chữa bệnh bí tiểu
Bệnh ở thận hoặc bàng quang có thể gây bí tiểu. Bên cạnh trị các nguyên nhân gây bệnh như làm tán sỏi, cải thiện chức năng thận, chúng ta cần dùng thuốc kích hoặc bàng quang, làm lợi tiểu, thông tiểu. Dân gian có cách:
Dùng 50g vỏ rễ cây ngái kết hợp với lượng tương ứng thổ phục linh.
Thêm vào đó 30g rễ của cây cối xay và 20g cỏ xước cùng lượng tương ứng mã đề.
Cho tất cả vào rửa sạch rồi đem sao nóng trên chảo gang.
Tiếp tục bỏ vào ấm để sắc cùng nước sôi khoảng 15 phút rồi chắt ra uống trong ngày.
Sử dụng nhiều ngày để hỗ trợ thông tiểu từ bên trong.
Chữa phù, suy thận bằng tầm gửi lá ngái
Không thuộc bộ phận của ngái nhưng tầm gửi sống trên cây này hút dưỡng chất từ cây cũng cho tác dụng chữa bệnh. Dân gian nhiều nơi dùng tầm gửi ngái để trị phù, suy thận như sau:
Dùng 40g tầm gửi ngái kết hợp với 15g mã đề và lượng tương ứng cỏ nhọ nồi.
Thêm vào 30g cây dâu tằm và lượng tương ứng rau dừa nước, lá ngũ trảo.
Đem rửa sạch các vị rồi đổ vào nồi, cho ngập nước để sắc nhỏ lửa.
Đến khi chỉ còn 1 bát cô đặc thì lại chia nhỏ làm 3 để uống trong ngày sau các bữa cơm.
Trong khi dùng thuốc này cần kiêng sử dụng gia vị mặn và không ăn cùng lúc uống dược liệu.
3. Trị bệnh xương khớp
Sung ngái kết với với nhiều dược liệu khác có thể tạo ra nhiều bài thuốc trị bệnh ở xương khớp rất hiệu quả. Cụ thể có các cách:
Người bệnh xương khớp bị nhức ở các khớp tay, chân và đau mỏi lưng. Đặc biệt là các cụ ông, cụ bà hoặc dân lao động, nhân viên văn phòng… thường xuyên khó chịu khi di chuyển. Trong Đông y có cách:
Bài thuốc 1
Dùng 25g phần vỏ và thân của cây ngái, đem cạo sạch phía ngoài.
Sau đó ngâm chúng vào nước vo gạo 2 tiếng để loại bớt mủ trắng.
Phơi khô số dược liệu này rồi đem sắc lấy nước hoặc ngâm rượu để xoa lên vùng đau.
Bài thuốc 2
Lấy 50g vỏ rễ cây ngái sung kết hợp với lượng tương ứng rễ cỏ xước.
Thêm vào 30g gây đau xương và lượng tương ứng rễ cây si.
Đem sao vàng các vị này rồi sắc lấy nước để uống trong ngày.
Lặp lại nhiều lần như vậy một cách đều đặn đến khi khỏi đau nhức.
Bài thuốc 3
Thuốc này dùng cho người bệnh đau nhức và sưng ở khớp do nhiễm phong thấp. Nó có tác dụng giảm, đau, viêm, loại trừ sưng và hỗ trợ đi lại, làm mạnh gân cốt. Các vị thuốc gồm:
40g rễ sung dại cùng tầm gửi cây này (dùng 20g).
Thêm 15g rễ cây xấy hổ (loại màu tím) và lượng tương ứng rễ cỏ xước.
Kết hợp cùng 12g rễ cây cam sành và lượng tương ứng rễ muống biển.
Đem ngâm rễ muống biển với nước vo gạo qua đêm, sau đó phơi khô cùng các dược liệu.
Rửa sạch lại rồi đem sắc với 1 lít nước trên lửa nhỏ để lấy 300ml cô đặc.
Chia số nước này thành 3 phần để uống sau các bữa ăn trong ngày, cách 1 tiếng.
Dùng 1 thang mỗi ngày cho đến khi hết biểu hiện đau nhức khớp xương.
Nếu bệnh nhân bị sưng nóng, đỏ rát ở khớp khiến việc vận động bị cản trở nhiều thì cần:
Loại bỏ rễ muống biển ra khỏi bài thuốc, thêm vào 20g rễ đu đủ đực và 12g trúc nhự.
Sau đó cũng sắc lấy nước thật kỹ lấy 3 lần cô đặc rồi trộn lại, chia ra sử dụng cuối các bữa ăn.
Bài thuốc này không sử dụng được cho phụ nữ có bầu, còn khi dùng cho trẻ nhỏ thì gia giảm mỗi vị đi 1 nửa.
4. Chữa phù thũng
Phù thũng là chứng bệnh trong Đông y có biểu hiện cơ thể tích nước, có dịch gây sưng phù ở bàn chân, tay, vùng bụng và ngực. Để trị tình trạng này, các thầy thuốc dùng các cách:
Cách 1
Vỏ thân cây ngái lấy 20g đem cạo sạch lớp ngoài cùng, sau đó ngâm với nước vo gạo 2 tiếng.
Vớt vỏ này ra, thêm vào 20g râu ngô và 15g mã đề, cho tất cả vào ấm.
Đổ 500ml nước vào đun nhỏ lửa để thu về 150ml nước cô đặc.
Chia số thuốc này làm 2, một nửa uống sáng, nửa còn lại hâm nóng uống tối.
Cách 2
Cũng dùng vỏ ngái cạo bỏ vỏ rồi ngâm nước vo gạo để loại bỏ nhựa, sau đó vớt ra phơi khô.
Mỗi lần dùng 50g vỏ này đem thái sợi, sao vàng lên.
Kết hợp thêm 30g lá sung và lượng tương ứng lá mã đề, cũng thái sợi.
Thêm 1 nhúm bồ hóng nhỏ, trộn đều vào nhau.
Cho hết vào ấm để sắc cùng 0.5 lít nước thật kỹ để lấy 100ml nước cô đặc.
Sau đó chia số thuốc thu được làm 2 và uống sau các bữa sáng, tối.
Kiên trì thực hiện như vậy 5 - 7 ngày liền để loại bỏ hết nguyên nhân gây bệnh.
5. Ngái sung chữa tiêu chảy
Ngái sung chữa tiêu chảy chỉ sử dụng phần lá hoặc thân cây khô, tuyệt đối không ăn quả, cũng tránh dùng vỏ cây tươi. Bởi lẽ nhựa trong đó chứa độc tố, làm tăng mức độ tiêu chảy, lại kèm theo nôn mửa.
Khi bị ngộ độc thức ăn, bạn đau bụng kèm theo đại tiện phân lỏng liên tục. Đồng thời có cảm giác buồn nôn hoặc nôn mửa, nên dùng:
30g vỏ cây ngái (đem tách phần lõi và bỏ vỏ ngoài, ngâm nước vo gạo 1 đêm).
Kết hợp thêm 20g rễ cây xương rắn và lượng tương ứng rễ màng tang.
Đem cả 3 vị này cắt khúc nhỏ rồi sao vàng lên trên chảo gang.
Sau đó cho vào nồi hoặc ấm đất để đun kỹ với nước, lấy hỗn hợp cô đặc uống trong ngày.
Sử dụng một vài lần, đến khi không còn bị tiêu chảy và các triệu chứng khác thì dừng.
7. Chữa và phòng sốt rét
Một trong những tác dụng nữa của sung rừng (ngái) chính là trị bệnh sốt rét. Từ lâu, người dân miền núi đã biết sử dụng cây này, cùng với tầm gửi trên nó để làm thuốc như sau:
Cách 1
Hái phần lá non của cây này hoặc tầm gửi ngái ngâm với nước muối loãng cho sạch.
Sau đó thêm 1 chút nước đun sôi để nguội vào, khuấy đều lên.
Lọc nước này qua rây để cho người bệnh uống, hoặc uống đề phòng sốt rét đều được.
Cách 2
Lấy lá ngái bánh tẻ rửa sạch, phơi khô để dùng dần.
Mỗi lần sử dụng 20g, rửa lại rồi cho vào đun kỹ, để nước thuốc nguội đi.
Sau đó chắt ra cho người bệnh sốt rét uống. Hoặc dùng vào những ngày hè, mưa ẩm để dự phòng sốt rét.
Cách 3
Ở mẹo này, bạn dùng dây tầm gửi cây ngái kết hợp với lá bưởi bung,
Đem tất cả đi rửa sạch, phơi khô và sao lên cho kiệt nước rồi đem sắc với nước.
Khi dược tính đã được cô đặc ở nước sắc thì chắt ra uống.
Bài thuốc này dùng được cho cả người bệnh, đồng thời cũng có tác dụng phòng sốt rét.
8. Mẹo chữa kiết lỵ
Người xưa còn dùng ngái để trị chứng đau quặn bụng, sốt cao do kiết lỵ. Nếu có biểu hiện này kèm theo phân dạng lỏng, chứa dịch nhầy và máu thì dùng:
30g tầm gửi sống trên thân của cây sung dại (ngái) đem phơi khô.
Cắt khúc nhỏ, rửa sạch rồi đem sắc kỹ với 300ml nước và cho người bệnh uống.
Để chữa khỏi bệnh hoàn toàn, bệnh nhân cần uống liên tục ít nhất 1 tuần.
9. Lá ngái chữa mụn đầu đinh
Mụn đầu đinh hay đinh râu mọc ở cằm gây sưng đau và có thể nguy hiểm nếu tự ý nặn. Nếu thấy xuất hiện mụn có đầu ngòi và mủ trắng, bạn nên xem kỹ xem có phải mụn đinh không. Khi biết chính xác đây là mụn đầu đinh thì dùng cách:
Lấy phần búp non ở đầu cành lá ngái, kết hợp cùng lượng tương ứng hạt cau (không có cũng được).
Đem ngâm rửa ngọn lá ngái với nước muối loãng cho sạch và bớt nhựa.
Sau đó giã nát cùng với cả hạt cau.
Vệ sinh vùng da mặt sạch sẽ, nhẹ nhàng, đặc biệt là quanh khu vực mụn.
Sau đó đắp hỗn hợp búp ngái hạt cau đã giã nát lên quanh vùng da mụn.
Để như vậy đến khi thuốc khô lại thì bỏ đi, làm sạch lại nhẹ nhàng.
Mỗi ngày tiến hành đắp như vậy khoảng 2 lần đến khi mụn hoàn toàn biến mất.
Tuyệt đối không dùng tay nặn mụn hoặc tác động lực vào đầu ngòi, khiến các mô xung quanh tổn thương.
Có thể nói, các bộ phận của cây ngái chữa được khá nhiều bệnh. Nếu tìm hiểu kỹ cách dùng và áp dụng từ sớm, dược tính của chúng sẽ đem lại hiệu quả tốt. Tuy nhiên, với những trường hợp bệnh nặng, bạn cần đi khám bác sĩ và hỏi kỹ bác sĩ nếu muốn chữa mẹo.
Lưu ý các dùng cây ngái chữa bệnh an toàn
Ngái sung là loại cây có chứa độc tố, vậy dùng có an toàn hay không, cần lưu ý gì? Để chữa bệnh bằng các bộ phận của chúng, bạn cần ghi nhớ:
Ngái mọc hoang ngoài tự nhiên và rất giống với sung, vả, vì vậy, cần nhận biết đúng mới dùng hiệu quả, chuẩn xác.
Nhựa của cây ngái chảy ta từ vỏ và quả xanh có thể gây ngộ độc. Nếu ăn vào, bạn dễ bị tiêu chảy, nôn và đau bụng, thậm chí là say. Cho nên, nếu dùng làm thuốc, cần ngâm với nước vo gạo ít nhất 2 giờ, hoặc để 1 đêm cho nhựa chảy hết.
Phụ nữ đang có bầu hoặc nuôi con bú sữa không được dùng các bài thuốc từ cây ngái. Cần cảnh giác trẻ nhỏ không được ăn quả ngái xanh.
Nếu dùng ngái để chữa bệnh cho trẻ nhỏ, ngoài việc loại bỏ độc tố, cần giảm 1 nửa liều lượng so với người lớn. Nên pha muối loãng để ngâm rửa các bộ phận của ngái trước khi dùng là tốt nhất.
Hiệu quả trị bệnh của cây ngái còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố như cơ địa, mức độ bệnh. Khi dùng cách chữa mẹo hoặc bài thuốc Nam, nếu thấy lâu có hiệu quả, bạn nên cân nhắc đổi thuốc.
Chữa bệnh bằng ngái hay bất cứ dược liệu nào khác cần kết hợp với chế độ ăn, sinh hoạt khoa học.
Đừng bỏ qua tầm gửi ngái khi thu hoạch ngoài tự nhiên, đây cũng là một dược liệu rất tốt,
Cây ngái mua ở đâu an toàn, giá tốt?
Là loại cây mọc hoang rất phổ biến ở nhiều nơi nhưng ngày nay, sự xuất hiện của nó cũng ít dần. Cùng với đó, con người cư trú ở thành thị, ít có điều kiện tiếp xúc và tự thu hái ngái ngoài tự nhiên hơn. Đặc biệt, họ không dành nhiều thời gian, hoặc thiếu sự trải nghiệm để nhận biết chính xác đâu lá cây ngái. Cho nên, khi có nhu cầu mua về sử dụng, nhiều người lúng túng, không rõ đâu là ngái thật, giá bao nhiêu thì hợp lý.
Để phục vụ nhu cầu làm thuốc chữa bệnh trong thời kỳ đất nông nghiệp, lâm nghiệp ngày càng bị thu hẹp, nhiều vườn dược liệu đã sản xuất ngái và thu hái, bảo quản để bán ở dạng khô.
Mỗi kg các loại dược liệu từ cây ngái được bán trên thị trường hiện phổ biến ở khoảng 180.000 đồng đến 250.000 đồng. Bạn có thể tìm thấy trong hiệu thuốc Đông y, đại lý của các vườn dược liệu.
Để đảm bảo mua được thuốc chất lượng, giá tốt, chúng tôi khuyên bạn nên đến những cơ sở uy tín, có chứng nhận nguồn nguyên liệu đạt chuẩn GACP - WHO.
Nhìn chung, cây ngái mọc hoang, có độc nhưng là thuốc quý được sử dụng làm thuốc từ bao đời nay. Nhiều tình trạng bệnh đã được chữa khỏi chỉ bằng mẹo dùng đơn giản. Tuy nhiên, bạn đọc cần tham khảo kỹ cách dùng, tránh bị ngộ độc do dùng vị này.