Bài 3: Các thiết bị vào/ra

Thiết bị vào (input device) là thiết bị có chức năng chuyển dữ liệu từ dạng con người hiểu dược (ví dụ như giá trị số, kí tự, hình ảnh, âm thanh,...) sang dạng mã nhị phân gồm một dãy các bit 0 và 1 để MTĐT có thể hiểu được và truyền vào bộ nhớ. Tương ứng với các dạng dữ liệu khác nhau sẽ có các thiết bị vào khác nhau. Sau đây là một số thiết bị vào thông dụng:

Hình 1.6 Bàn phím máy tính

Hình 1.7 Chuột máy tính

Bên cạnh hai thiết bị vào phố biến là chuột và bàn phím, bất cứ thiết bị nào cho phép chuyển thông tin vào bộ nhớ trong đều gọi là thiết bị vào. Một số loại thiết bị vào khác như máy đọc ảnh (scanner), webcam, máy ghi âm, máy đọc mã vạch,...

Thiết bị ra là các thiết bị dùng để đưa dữ liệu ra từ máy tính. Có nhiều loại thiết bị ra như: màn hình, máy in,...

Màn hình (monitor): là thiết bị hiển thị hình ảnh tương tự như màn hình ti vi. 800 X 1280 điểm ảnh với từ 28 đến 224 sắc độ màu khác nhau. Màn hình có độ phân giải càng cao và càng nhiều màu thì chất lượng hình ảnh càng đẹp. Một tính năng khác mà hầu hết các màn hình ngày nay đều phải có.

Hình 1.8 Màn hình

Khi máy tính làm việc, thông tin hiển thị trên màn hình bởi tập hợp các điểm ảnh (pixel). Mỗi điểm ảnh có độ sáng tối và màu sắc khác nhau, số lượng điểm ảnh trên màn hình được gọi là độ phân giải màn hình. Ví dụ, màn hình có độ phân giải 800 X 600 được hiểu là màn hình có thể hiển thị 600 dòng, mỗi dòng có 800 điểm ảnh. Các tính năng của màn hình không chỉ phụ thuộc vào chính nó mà còn phụ thuộc vào thiết bị điều khiển màn hình (video card). Các màn hình Super VGA thông thường hiện naỵ cho độ phân giải tới là khả năng tiết kiệm năng lượng. Khi ngừng làm việc với máy tính một thời gian đủ dài, các màn hình có khà năng ngừng hoạt động.

Màn hình có hai loại phổ biến là màn hình tia catot và màn hình tinh thể lòng (plasma). Ngày nay, loại màn hình thứ hai được dùng rất phổ biến trong cả máy tính bàn và máy tính xách tay. Màn hình tinh thể lỏng tuy giá thành đắt hơn nhưng có kích thước nhỏ gọn, tiết kiệm điện hơn so với màn hình tia catot.

Máy in (printer): cũng là loại thiết bị đầu ra phổ biến, được dùng để in thông tin từ máy tính lên các tờ giấy in. Có một số loại máy in thường gặp sau:

Hình 1.9. Máy in dòng

Hình 1.10 Máy in kim

Hình 1.11 Máy in laser

Hình 1.12 Máy in phun mực

Ngoài ra còn có có nhiều loại thiết bị ra khác như máy vẽ, máy fax, máy chiếu,...

Một số thiết bị vừa có thể là thiết bị vào vừa có thể là thiết bị ra như: các thiết bị dọc/ghi đĩa; các modem dể nối các máv tính với nhau theo đường điện thoại.

Xử lí thông tin là tìm ra những dạng thể hiện mới của thông tin phù hợp với mục dich sử dụng. Ví dụ, việc tìm ra hai nghiệm x1 và x2 của phương trình bậc hai (ax^2 + bx + c = 0). Xử lí thông tin ở đây chính là quá trình tìm nghiệm của phương trình dựa vào các hộ số a, b, c đã biết.

Quá trinh xử lí thông tin trên MTĐT cũng tương tự như thực hiện các thao tác thủ công (trên giấy, với bút, bàn tính,...). Do vậy, trước hết, cần lưu ý một số điểm khi thực hiện việc xử lí thủ công nói chung:

MTĐT là công cụ xử lí thông tin tự động, không cần sự tham gia trực tiếp của con người. Tuy nhiên, MTĐT tự nó không thể quyết định được, khi nào thì phải làm gì, cộng hay trừ, nhân hay chia, các dữ liệu tham gia xử lí sẽ lấy ở đâu... Để làm dược điều đó, con người cần phải cung câp dầy dú ngay từ đẩu cho MTĐT các mệnh lệnh, chỉ thị để hướng dẫn MTĐT thực hiện. Các mệnh lệnh, chỉ thị được con người soạn thảo bằng một ngôn ngữ mà máy hiểu được gọi là chương trình. Chương trình được lưu trữ trong bộ nhớ của máy. Như vậy quá trình xử lí thông tin trong MTĐT có thể được xem là gồm các thao tác cơ bản sau đây:

Quá trình xử lí thông tin trên MTĐT được mô tả bàng sơ dồ tông quát dưới đây:

Hình 1.13. Sơ đồ xử lí tlíông thì trong máy tính điện tử

Theo mô tả trên, một MTĐT sẽ gồm bốn bộ phận chính: bộ phận thực hiện các phép toán số học và logic; bộ phận ghi nhớ dừ liệu, ghi nhớ tập lệnh cần thực hiện; bộ phận tự động thực hiện tập các lệnh theo đúng trật tự đã được xác định và bộ phận vào/ra để giao tiếp với con người. Đây cũng là dặc trưng cơ bản trong sơ đồ cấu trúc của MTĐT theo nguyên lí J. Von Ncumann.

Nguyên lí máy tính J. Von Neumann. Máy tính thiết kế theo sơ đồ của J. Von Neumann có các dặc trưng quan trọng sau:

Hình 1.14 Bộ xử lý CPU

CPU là bộ phận quan trọng nhất của máy tính, có chức năng thực hiện và điều khiển việc thực hiện chương trình của máy tính. CPU gồm các thành phần chính:

Nhờ công nghệ vi mạch, người ta có khả năng chế tạo toàn bộ bộ xử lí trong một chip (một mạch vi điện tử được đóng trong một vỏ duy nhất). Những bộ xử lí như vậy gọi là bộ vi xử lí (Microprocessor).

MTĐT hoạt dộng dựa trên nguyên lí J. Von Neumann, bao gồm các nội dung cơ bản như sau: mã hoá nhị phân, điều khiển bằng chương trình, lưu trữ chương trình và truy cập theo địa chỉ. Mọi thông tin đưa vào máy tính (gồm cả chương trình) đều được mã hoá nhị phân, và được lưu trừ trong bộ nhớ bàng các dãy bit 0 và 1 để máy tính có thể hiểu và xử lí được.

Máy tính có khả năng thực hiện theo chương trình (một dãy lệnh cho trước và có trình tự xác định) mà không cần sự can thiệp trực tiêp của con người. Tại mỗi thời diểm, máy tính chi có thể thực hiện được một lệnh. Tuy nhiên, tốc dộ thực hiện lệnh rất cao, có thể lên tới hàng trăm triệu lệnh trong một giây (đối với máy vi tính). Đe thực hiện các lệnh, chúng cần dược đưa vào máy tính dưới dạng mã nhị phân dê lưu trữ như những dữ liệu khác. Tất cả các dữ liệu và lệnh trong máy tính dều được truy cập thông qua dịa chỉ lưu trữ nó. Như vậy, khi thực hiện một lệnh cần phải đọc/ghi bộ nhớ nhiều lần.

Một chương trình máy tính được thực hiện bàng việc thực hiện liên tiếp một dãy lệnh. Đổ quản lí thứ tự các lệnh, bộ điều khiên (CƯ) của bộ xử lí trung tâm sử dụng thanh ghi dếm địa chỉ (Program Counter - PC) để ghi địa chỉ cùa lệnh sẽ được thực hiện tiếp theo. Giá trị khởi tạo của PC là địa chỉ lệnh dầu tiên của chương trình. Chu kì thực hiện một lệnh trong MTĐT gồm các bước sau đây:

Chu trình thực hiện lệnh được mô tả cụ thể theo sơ dồ trong hình 1.15.

Hình 1.15. Chu trình thực hiện lệnh

Kể từ khi ra đời, MTĐT không ngừng được cải tiến để phục vụ nhu cầu sử dụng của con người trong mọi lĩnh vực. Dựa vào các đặc trưng kĩ thuật chế tạo và hiệu năng sử dụng, MTĐT có thể dược chia thành các thế hệ phát triển như sau:

Hình 1.16. Chiếc mảy tính ENIAC sử dụng bóng đèn diện tử

Các siêu máy tính thường được thiết kế dựa trên kiến trúc song song, một máy tính có thể có nhiều bộ xử lí hoạt động cộng tác với một bộ nhớ chung. Những thành tựu mới của công nghệ vi điện tử cho phép chế tạo ra các máy tính rất mạnh. DeepBlue, máy tính đầu tiên chiến thắng nhà vô địch cờ thế giới Caxparov, là một máy song song gồm 256 bộ xử lí PowerPC có khả năng phân tích 200 triệu nước cờ/giây.

Với các máy tính cực nhỏ, nhờ sử dụng công nghệ vi điện tử đã cho phép chế tạo bộ xử lí trong một vi mạch duy nhất gọi là bộ vi xử lí (microprocessor). Bộ vi xử lí đầu tiên đưa ra thị trường là vi mạch 4004 của hãng Intel vào năm 1971 đã mở đầu cho kỉ nguyên máy vi tính. Các máy vi tính (micro computer) là các máy tính xây dựng trên các bộ vi xử lí.

MTĐT gồm nhiều loại khác nhau: máy vi tính (microcomputer), siêu máy tính (supercomputer), máy lớn (mainframe) và các máy tầm trung (mini), trạm làm việc (workstation), máy tính bảng, điện thoại thông minh (smartphone),... Trong đó, máy vi tính được sử dụng phổ biến nhất. Ngày nay, khi nhắc đến MTĐT là người ta nghĩ ngay đến máy vi tính.

Hình 1.17 Máy vi tính

Sự khác nhau lớn nhất của các lớp máy tính này không phải ở công suất thực hiện mà là phưomg thức sử dụng. Chẳng hạn, máy vi tính được thiết kế cho hoạt động cá nhân, còn các máy tính loại còn lại được thiết kế cho chế độ sử dụng tập thề.

Máy tính bảng và điện thoại thông minh đã đạt được những tiến bộ vượt bậc và trở nên rất phố biến trong vài năm gần đây. Các máy tính bảng nổi tiếng như iPad với màn hình mỏng, màn hình hoạt dộng cảm ứng đã trở nên vô cùng tiện lợi trong duyệt web, đọc sách, chơi game và hàng nghìn trình ứng dụng đặc biệt. Có nhiều loại máy tính bảng khác nhau tuỳ theo công suất xử lí và hệ điều hành. Các bộ xử lí như Intel® Atom™ cung cấp công suất xử lí khá mạnh cho các máy tính bảng thế hệ mới, một số các máy tính bàng cũng có bộ xừ lí hai nhân, kể cả Motorola Xoom và Asus Eee Transformer.

Điện thoại thông minh là điện thoại tích hợp nền tảng hệ điều hành di động với nhiều tính năng tiên tiến. Điện thoại thông minh có màn hình cảm ứng với độ phân giải cao, sẵn sàng để gọi bàn phím ảo, viết chữ tay và có tính năng như một máy tính di động. Điện thoại thông minh phổ biến nhất hiện nay dựa trên nền tảng của hệ điều hành Android của Google và iOS của Apple.

Link nội dung: https://thietkewebhcm.com.vn/thiet-bi-vao-dung-de-lam-gi-a38810.html