Chống khai thác IUU, phát triển bền vững kinh tế biển - Bài cuối: Tái cơ cấu, bảo vệ nguồn lợi tự nhiên

Song song với việc thực hiện gỡ “thẻ vàng” của Ủy ban Châu Âu (EU), các tỉnh ven biển vùng Nam Đồng bằng sông Hồng đang thực hiện cấu trúc lại nghề cá theo hướng phát triển bền vững, tạo sinh kế phù hợp, nâng cao chất lượng cuộc sống cho ngư dân.

Chú thích ảnh

Cơ cấu lại lĩnh vực nuôi trồng, khai thác thủy sản

Mặc dù có duy nhất một huyện ven biển là Kim Sơn, song những năm qua tỉnh Ninh Bình đã tận dụng tối đa lợi thế này để phát triển nuôi trồng thủy sản, đem lại thu nhập cao cho người dân. Với tổng diện tích nuôi trồng thủy sản gần 5.000 ha (trong đó có tới 4.000 ha nuôi trồng thủy sản nước mặn, lợ), huyện Kim Sơn xác định nuôi trồng thủy sản nước mặn, lợ vùng bãi bồi ven biển là trọng tâm phát triển.

Theo lãnh đạo UBND huyện, để phát triển thủy sản theo hướng bền vững, Kim Sơn đã tích cực tuyên truyền cho người dân phát triển các mô hình sản xuất thâm canh ứng dụng công nghệ cao như: Sử dụng nhà lưới nuôi 3 vụ/năm; sử dụng chế phẩm vi sinh cải tạo môi trường nuôi; sử dụng hệ thống sục khí để tăng mật độ con nuôi… Các mô hình này đều đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều lần so với nuôi quảng canh truyền thống. Nhờ vậy, năm 2023, sản lượng thủy sản của huyện ước đạt trên 36.000 tấn, trong đó sản lượng nuôi trồng 31.331 tấn, khai thác 4.964 tấn. Cùng với đó, hoạt động sản xuất ngao giống, hàu giống, cua xanh đang được nông dân các xã ven biển đầu tư phát triển, đáp ứng nhu cầu của các tỉnh lân cận (Nam Định, Thanh Hóa, Thái Bình, Quảng Ninh). Hiện nay, toàn vùng đã có 301 trại sản xuất giống hàu, giống ngao.

Với bờ biển dài trên 52 km, Thái Bình có nguồn hải sản khá dồi dào, trữ lượng ước tính khoảng 26.000 tấn, trong đó trữ lượng cá 24.000 - 25.000 tấn, tôm 600 - 1.000 tấn, mực 700 - 800 tấn. Sản lượng đánh bắt, nuôi trồng thủy, hải sản khoảng trên 18.000 tấn/năm. Ngoài ra, các khu vực cửa sông và ven bờ có khả năng lớn về nuôi trồng thủy sản như tôm, cua, sò, nghêu... Hiện, trên địa bàn đã quai vùng đê bao khoảng 4.000 ha đầm mặn, lợ để nuôi trồng thủy sản, trong đó diện tích nuôi trồng hữu hiệu khoảng 3.287 ha.

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tận dụng những lợi thế này, Thái Bình đã phát triển khai thác, nuôi trồng thủy hải sản, tạo sinh kế cho người dân. Diện tích nuôi trồng thủy sản toàn tỉnh đạt trên 15.600 ha, trong đó nuôi thủy sản nước lợ 3.550 ha, nước mặn 3.169ha, nước ngọt 8.939 ha. Năm 2024, tỉnh phấn đấu lĩnh vực nuôi trồng thủy sản tăng trưởng 3,2%, giá trị sản xuất ước đạt 6.132,6 tỷ đồng; sản lượng thủy sản ước đạt 397 nghìn tấn, trong đó khai thác ước đạt 104 nghìn tấn, nuôi trồng thủy sản ước đạt 193 nghìn tấn.

Định hướng phát nuôi trồng thủy sản của Thái Bình thực hiện theo nhiều hình thức, đa dạng hóa chủng loại với các đối tượng nước mặn, lợ, ngọt có giá trị kinh tế phù hợp với điều kiện tự nhiên và kinh tế, xã hội của từng vùng trong tỉnh, gắn với tái cơ cấu ngành Nông nghiệp; đồng thời đẩy mạnh đầu tư xây dựng hạ tầng cho các vùng nuôi tập trung. Đối với lĩnh vực khai thác thủy sản, tỉnh xác định điều chỉnh lại cơ cấu tàu cá theo nhóm nghề và nhóm công suất phù hợp, giảm nhanh khai thác ven bờm, tăng dần khai thác vùng lộng và vùng khơi. Tỉnh cũng khuyến khích phát triển nghề câu, lưới rê, vây, chụp mực, tàu dịch vụ hậu cần trên biển; đồng thời hạn chế, giảm nhanh các tàu khai thác lưới kéo ven bờ, các nghề ảnh hưởng đến nguồn lợi tự nhiên.

Việc cơ cấu lại ngành nuôi trồng, khai thác thủy sản là hướng đi tất yếu nhằm phát huy lợi thế, hướng đến phát triển bền vững. Với 72 km bờ biển, đến nay, toàn tỉnh Nam Định đã thành lập được 22 tổ, đội hợp tác khai thác thủy sản. Cơ cấu nghề khai thác chuyển đổi theo hướng phát triển các nghề có tính chọn lọc cao, ít gây hại cho môi trường và nguồn lợi thủy sản như nghề lưới vây, nghề câu, nghề rê...

Tỉnh Nam Định đang tập trung phát triển các đội tàu có công suất lớn hơn 300CV để khai thác xa bờ gắn với dịch vụ hậu cần thủy sản, khai thác và bảo quản sản phẩm. Trên địa bàn có 2 cảng cá được công bố mở cảng và đưa vào sử dụng gồm một cảng cá loại I (cảng cá Ninh Cơ) và một cảng cá loại III (cảng cá Thành Vui) đảm bảo tàu, thuyền neo đậu, ra vào bốc dỡ hàng hóa an toàn và tiếp cận các dịch vụ hậu cần nghề cá; chấp hành đầy đủ công tác kiểm tra tàu cá trước khi xuất bến và cập bến.

Khai thác theo hướng bền vững

Chú thích ảnh

Theo Chương trình Quốc gia bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản đến năm 2030 được Chính phủ phê duyệt, hoạt động tuần tra, kiểm tra, kiểm soát, quản lý nguồn lợi thủy sản được gắn liền với hoạt động khai thác thủy sản bền vững, chống khai thác IUU. Điều đó cho thấy chống khai thác IUU đã trở thành một trong những yếu tố cốt lõi trong phát triển bền vững ngành Thủy sản ở nước ta.

Link nội dung: https://thietkewebhcm.com.vn/thuan-loi-chu-yeu-cua-bien-nuoc-ta-doi-voi-khai-thac-thuy-san-la-co-a54169.html